[Trích từ tư liệu đang soạn của Nguyên Hà. Thông tin trong bài cần thẩm định thêm…]
Kinh Sơn Phiến Ngọc – Mảnh Ngọc Núi Kinh là một hiệu đề có thể gặp trên đồ sứ ký kiểu. Một trong những món già tuổi và đẹp là đĩa vẽ tích Di kiều tiến lí – Dâng giày ở cầu Di, vẽ cảnh Trương Lương dâng giày cho Hoàng Thạch công.
1. Tóm tắt tích truyện về ngọc núi Kinh: đời Sở Lệ vương 楚厲王 (từ 757-741 trCN), có người thợ đá tên Biện Hòa 卞和 đào được ở (núi) Kinh Sơn viên đá mà biết bên trong là ngọc, nên đem dâng lên. Nhưng các thợ trong kinh thành tâu rằng đó chỉ là đá, tên dân này dám cả gan khinh thường nhà vua. Biện Hòa bị tội chặt chân trái. Khi con Lệ vương là Vũ vương lên ngôi, Biện Hòa lại mang vào tiến vua, tiếp tục bị chặt chân phải. Văn vương là con Vũ vương lên ngôi, Biện Hòa ngồi ở núi Kinh khóc vì không còn đi được nữa, mắt chảy ra máu. Các quan làm sớ tâu lên, vua cho xem xét lại đẽo đá ra, quả trong đúng là ngọc quí. Về sau ngọc ấy được gọi Hòa thị chi bích, đem chế thành ngọc tỷ.
Hiệu đề Kinh Sơn Phiến Ngọc đề khoản trên đồ sứ hàm chứa ý nghĩa sâu xa: viên ngọc thô ẩn trong đá không phải ai cũng nhìn ra, giống như kẻ sĩ phải có duyên mới tìm được minh quân để phò tá, mà nhiều khi trước đó cũng trải qua bao thê lương thảm khốc… Tất nhiên đây là quan điểm trung quân của giới Nho sĩ ngày xưa.
Mình vốn thích hiệu đề chữ Phác 璞 hơn. Cũng là ngọc trong đá. Nhiều món hiệu đề này vẽ khá đẹp, như hiện vật đề tài phượng và ngô đồng, trong sưu tập của ông Đoàn Phước Thuận – Phú Yên…
Bài học rút ra thì tùy mỗi người. Nếu không chắc là có vua sáng tôi hiền, thì kẻ sĩ nên cứ chọn thong dong tiêu dao. Bon chen đem thân vào chốn quan trường, gặp phải bọn gian thần bất tài chỉ giỏi xu nịnh, thì rõ ràng tưởng phúc mà thành gặp họa.
2. Tóm tắt tích truyện về Trương Lương 張良: Trương Lương sinh khoảng trước 250 trCN, mất khoảng 188 trCN, hiệu Tử Phòng, là khai quốc công thần nhà Hán, một trong Hán sơ tam kiệt đã có công phò tá Lưu Bang 劉邦 đánh đổ nhà Tần và tranh hùng với nước Sở. Trương Lương được nhắc đến như người từng chủ mưu hành thích Tần Thủy Hoàng lần thứ ba, việc không thành nhưng trốn thoát được. Tương truyền khi phải ẩn mình ở Hạ Bi 下邳 ông đã có cơ duyên gặp Hoàng Thạch công (thần trong hòn đá màu vàng, nằm dưới chân núi Cốc Thành ở phía bắc sông Tế), và được truyền cuốn Thái Công binh pháp. Nghiền ngẫm và sau dâng binh pháp này cho Lưu Bang, ông đã lập được rất nhiều công trạng hiển hách. Tuy nhiên ông vẫn khiêm nhường, không nhận nhiều vinh hoa về mình, chỉ nhận tước hầu ở đất Lưu, nên còn có danh là Lưu hầu.
Sự tích Trương Lương điển hình cho người Nho sĩ ẩn mình nhẫn nhịn, thiên về hình ảnh người mưu sĩ kiệt xuất chứ không phải danh tướng lừng lẫy võ công. Lê Thánh tông (1442-1497), Lê Quý Đôn (1726-1784) đều từng vịnh thơ về Trương Lương. Uy Viễn tướng công đầy chất Nho sĩ tài tử Nguyễn Công Trứ (1778-1858) cũng làm bài phú Trương Lương, nhắc câu Trí tai Lưu hầu thiện tàng kì dụng của Trình Tử tức Trình Di 程颐 (1033-1107) danh Nho đời Tống. Quan niệm về tàng và dụng ấy cũng là quan niệm của Nho gia về xuất xử – ra đời hay ở ẩn, hành tàng – ra làm quan hay náu một chỗ. Như lời Khổng Tử nói với Nhan Uyên 顏淵: Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng, duy ngã dữ nhĩ hữu thị phù.
Vốn là dân ngoại đạo cả về cổ vật lẫn Hán Nôm, mình đang có thắc mắc: đa phần mọi người khi kể việc Trương Lương ẩn mình đều đọc 下邳 là Hạ Bì, còn nơi Trương Lương nhặt giày cho Hoàng Thạch công thì đọc 圯橋 là Dĩ kiều. Mình đang tạm ghi là Hạ Bi và Di kiều. Vậy nên mới viết kèm là “thông tin trong bài cần thẩm định thêm”…
3. Vài lời nói thêm:
Đây là một ghi chép về vấn đề còn phân vân, nên mình không kèm chú thích hay ghi nguồn dẫn. Những bài tạm xong ở blog này đều cố gắng một cách tối đa ghi chú chính xác nguồn tham chiếu, hầu chia sẻ cho ai quan tâm có thể tự tìm thông tin sâu hơn là phần viết vốn còn hạn chế của mình.
Bài để trên blog cá nhân, nhưng có anh em tình cờ bắt gặp rồi ưu ái chuyển tiếp trên Internet, cũng vui. Chính mình vẫn thường xuyên search tư liệu online. Như vừa rồi tìm thấy món Kinh sơn phiến ngọc khác khá hay của một nhà sưu tập từ Nha Trang , với câu thơ đề khoản Đái bộc bão cầm xuyên thạch kính – Kị lư đạp tuyết việt sơn pha. Tạm dịch: Mang người hầu ôm đàn theo đường đá – Cưỡi lừa đạp tuyết vượt qua sườn núi… Giá có dịp gặp, mình sẽ xin phép được sử dụng hình ảnh đó làm tư liệu cho bài đang soạn của mình.
Cuối cùng, mong rằng nếu ai có nhã ý sử dụng thông tin ở đây như chút nguyên liệu cho các việc khác, thì nên viết lại theo lời văn của họ, để tránh cho họ, cũng là tránh cho thầy mình và mình cùng bạn của mình (vốn là nhóm tác giả của nhiều bài tại đây) khỏi mang tiếng viết trùng lắp nhau. Kiến thức vốn bao la, dù sao chia sẻ nhiều thì có lợi cho cộng đồng hơn là có hại.
[Ghi chú (Aug 21, 2021): Để văn bản hiển thị gọn hơn, các chữ Nho đã được lược bớt]